Người nước ngoài, việt kiều sở hữu nhà : Vẫn còn nhiều băn khoăn
Các doanh nghiệp hiện vẫn còn không ít băn khoăn xung quanh việc áp dụng Luật vào thực tiễn ngay cả khi Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và Luật Nhà ở 2014 đã chính thức có hiệu lực.
Lúng túng trước quy định người nước ngoài, Việt kiều sở hữu nhà
Cuối tuần qua, tại hội thảo do Hiệp hội Bất động sản Tp.HCM tổ chức về việc góp ý dự thảo các nghị định hướng dẫn chi tiết của Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và Luật Nhà ở 2014, đại diện các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp đã đưa ra khá nhiều vấn đề để bàn luận và mổ xẻ. Mặc dù vậy, những băn khoăn còn tồn tại đối với quy định về sở hữu nhà ở cho Việt kiều và người nước ngoài tại Việt Nam có lẽ chính là những vấn đề nóng hổi nhất.
Tại các khoản 3 và 4 của Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật nhà ở đã quy định:
Đối với dự án đầu tư xây dựng nhà ở mà có nhà ở riêng lẻ, thì tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu không vượt quá 10% tổng số nhà ở riêng lẻ của mỗi dự án; trường hợp trong một dự án hoặc một số dự án có số lượng nhà ở riêng lẻ là 2.500 căn (tương đương quy mô cấp phường), thì tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu không vượt quá 250 căn.
Tổ chức cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu không quá 30% tổng số căn hộ của một toà nhà chung cư; trường hợp trên một địa bàn tương đương cấp phường mà có nhiều toà nhà chung cư để bán, cho thuê mua, thì tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu không quá 30% số căn hộ của mỗi toà nhà chung cư và không quá 30% tổng số căn hộ của tất cả các toà nhà chung cư này.
Về cơ bản, theo ý kiến từ phía đại diện các doanh nghiệp, mặc dù quy định này phù hợp với quy định tại Điều 161 Luật Nhà ở 2014, tuy nhiên lại với thực tiễn của một số địa phương thì không phù hợp.
Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Tp.HCM, ông Lê Hoàng Châu, đánh giá, các địa phương như Tp.HCM, Khánh Hòa, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận, Đồng Nai, Kiên Giang, Thanh Hóa,…là những địa phương hiện có số người nước ngoài tập trung đông. Bên cạnh đó, các phường ở Tp.HCM như phường Bến Nghé, phường Bến Thành, quận 1; Khu đô thị mới Thủ Thiêm, phường Thảo Điền, quận 2; phường Tân Phong, quận 7 (gồm Khu đô thị Phú Mỹ Hưng và rất nhiều dự án khác) cũng là những nơi cũng có đông người nước ngoài cư trú.
Quy định sở hữu và kinh doanh BĐS với đối tượng người nước ngoài,
iệt kiều hiện vẫn còn tồn tại nhiều băn khoăn. Ảnh: Lê Toàn
Để tạo điều kiện cho các cá nhân cũng như tổ chức nước ngoài thuận lợi hơn trong việc mua, sở hữu nhà ở tại Việt Nam, UBND cấp tỉnh của các địa phương nói trên nên nhận quyền xem xét quyết định nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương.
Trưởng đại diện Tập đoàn Akitakei, Nhật Bản tại Việt Nam, ông Akio Yoshida, nhận định, số lượng người Nhật hiện đang làm việc và sinh sống tại Việt Nam là rất lớn và cộng đồng này cũng muốn mua nhà để sớm ổn định cuộc sống và định cư, làm việc lâu dài. Mặc dù vậy, có sự bất hợp lý khi việc người nước ngoài chỉ được mua khoảng 30% trong một toà nhà được quy định trong dự thảo Nghị định. Ông Akio Yoshida cũng cho hay, bên cạnh việc đơn giản hoá các thủ tục pháp lý, cần mở rộng tỷ lệ sở hữu này lên mức 40-50%.
Có thể gia hạn thêm tối thiểu 20 năm nữa với quy định về thời hạn sở hữu nhà với người nước ngoài là 50 năm, theo giả thiết ông Lê Hoàng Châu đặt ra, cần có quy định cụ thể trong giấy đăng ký quyền sở hữu chẳng hạn như trường hợp của 1 người nước ngoài đã mua nhà ở được 10 năm và bán lại cho một người khác thì số năm được sở hữu còn lại sẽ là 40 hay 50 năm trong giấy đăng ký quyền sở hữu mới cũng cần được nêu rõ.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều những vấn đề khác cũng cần có một sự quy định rõ ràng và cụ thể như: người nước ngoài có thể chuyển nhượng, cầm cố hoặc vay tiền mua nhà không hay để chống rửa tiền thì người nước ngoài mua nhà phải thực hiện cách chuyển tiền như thế nào…Trên thực tế, không phải đã có visa trong tay là người nước ngoài có thể mua nhà một cách thoải mái bởi có rất nhiều thứ khác họ sẽ phải chứng minh, đặc biệt là lý lịch. Việc này càng khó hơn đối với Việt kiều vì không ít trường hợp họ không có bất kỳ một loại giấy tờ nào để chứng minh bản thân khi đã rời xa Tổ quốc cách đây 30-40 năm.
Giám đốc Kinh doanh tiếp thị của Sacomreal, ông Trương Thanh Tú cũng đặt ra nghi vấn, nếu người mua nhà là người ngoại quốc thì chỉ cần quá cảnh cũng có thể mua nhà ở hoặc nếu không sẽ cần loại visa như thế nào. Một trường hợp khác, nếu người nước ngoài là đối tượng sở hữu nhà muốn chuyển nhượng sau 3 tháng thì sẽ tinsg 49 năm hay 50 năm cho thời hạn sở hữu nhà còn lại và có cần đóng thêm khoản phí nào nếu gia hạn thêm hay không?
Theo thông tin từ một đại diện ban soạn thảo, khi mua nhà Việt kiều phải có giấy chứng minh Việt kiều, đóng dấu kiếm chứng xuất nhập cảnh đối với việc chứng minh nguồn gốc, trong khi đó người nước ngoài chỉ cần nhập cảnh một ngày vào Việt Nam cũng có thể mua được nhà.
Mặt khác, trong quá trình chuyển nhượng, người chuyển nhượng sẽ không phải mất thêm khoản phí nào và sẽ chỉ được gia hạn tối đa một lần. Phía các doanh nghiệp vẫn chưa thật sự thoả mãn với phần trả lời này vì theo họ, thủ tục mới cần có cơ chế mở hơn và quy định chi tiết hơn thì mới có thể kích thích việc mua nhà của Việt kiều và người nước ngoài. Cũng không có gì khó hiểu vì nếu không có sự rõ ràng trong các quy định chi tiết ở các văn bản hướng dẫn thì sẽ rất khó dù cho Luật cũng đã khá mở.
Sẽ sớm có hướng dẫn cụ thể về bảo lãnh nhà ở
Song song với đó, các doanh nghiệp cũng đặt ra nhiều vấn đề trong phần góp ý cho Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản, cụ thể, quy định bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai chính là vấn đề dành được nhiều sự quan tâm nhất.
Khoản 1, Điều 56 của Dự thảo quy định: “Chủ đầu tư dự án bất động sản trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai phải được ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư đối với khách hàng khi chủ đầu tư không bàn giao nhà ở theo đúng tiến độ đã cam kết với khách hàng”.
Đại diện các doanh nghiệp cũng khá ủng hộ quy định này vì cho rằng đây là quy định hợp lý và có tác dụng bảo vệ cho người tiêu dùng khi mua nhà. Nhưng theo ông Lê Hoàng Châu, vẫn chưa có sự hợp lý khi chỉ có ngân hàng thương mại được tham gia bảo lãnh theo như Luật quy định, cũng nên tạo điều kiện thí điểm để doanh nghiệp bảo hiểm có thể tham gia, từ đó nhà đầu tư cũng có thêm sự lựa chọn cho mình.
Phó giám đốc Công ty TNHH Địa ốc Đất Lành, ông Nguyễn Văn Đực lại cho rằng, khi đầu tư một dự án BĐS, doanh nghiệp đã phải vay ngân hàng ngay từ khâu mua đất cho đến khâu xây dựng và lại tiếp tục giao việc bảo lãnh cho ngân hàng khi bán nhà thì liệu các ngân hàng có gặp phải rủi ro không?
Giải đáp các thắc mắc trên, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản, Bộ Xây dựng, ông Vũ Văn Phấn cho hay, một thông tư hướng dẫn thi hành điều luật này sẽ được ban hành bởi Ngân hàng Nhà nước trong thời gian sắp tới, tuân thủ theo đúng các quy định về bảo lãnh ngân hàng trước đó. Ông Phấn cũng cho biết, để bảo vệ người mua nhà thì quy định về bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai là vô cùng cần thiết.
Đã từ lâu có không ít các doanh nghiệp tìm nhiều cách huy động tiền của khách rồi “đắp chiếu” cho dự án, đầu tư một cách rất lôm côm đã khiến người mua nhà rơi vào cảnh “tiền không cánh mà bay”. Trước giờ loại doanh nghiệp này chủ yếu được áp dụng biện pháp chế tài là xử phạt hành chính và tất nhiên, vấn đề chẳng thể được giải quyết nhờ phương án xử phạt này.
Theo đánh giá của ông Phấn, hiện nay, không thể giả tạo mà cần thực hiện một cách thực chất việc bảo lãnh ngân hàng. Công tác hậu kiểm sẽ được các Cơ quan chức năng tăng cường. Hện tiền ký quỹ cũng có không ít ngân hàng không đòi hỏi và thay vì mức phí 2% theo quy định thì một số ngân hàng cũng đưa ra mức phí chỉ 0,5%.
Theo ông Phấn, về kiến nghị cho doanh nghiệp bảo hiểm được tham gia bảo lãnh, Ban soạn thảo trước khi ban hành cũng đã nghiên cứu rất kỹ, hiện cũng đã có quy định rất rõ ràng trong Luật đó là chỉ những ngân hàng thương mại nằm trong danh sách được công bố bởi Ngân hàng Nhà nước thì mới có thể được tham gia ký kết bảo lãnh, bởi vậy, việc mở rộng sự tham gia đối với các đối tượng tài chính khác là không thể.
Về những băn khoăn của ông Đực, ông Phấn nhận định, trước khi bảo lãnh và cho vay, các ngân hàng đã phải có sự cân nhắc kỹ càng và luôn là đối tượng “nắm đằng chuôi”, vì vậy, sẽ không cần lo lắng về việc cho vay nhiều khoản dẫn tới chuyện vỡ nợ của ngân hàng.
(Theo Báo Đầu tư)
Leave a Reply